Viêm bể thận là một loại nhiễm trùng đường tiết niệu quan trọng trên lâm sàng. Đó là viêm bể thận và viêm nhiễm nhu mô thận do vi khuẩn trực tiếp gây ra (rất ít là nấm, vi rút, động vật nguyên sinh, v.v.). Bệnh có xu hướng xảy ra ở nữ giới với tỷ lệ nữ so với nam khoảng 1:1, đặc biệt ở phụ nữ đã có gia đình trong độ tuổi sinh đẻ, trẻ sơ sinh nữ và phụ nữ cao tuổi. Bệnh được chia thành các giai đoạn cấp tính hoặc mãn tính trên lâm sàng.
Bệnh chủ yếu do vi khuẩn đường ruột gây ra, với Escherichia coli chiếm khoảng 60% ~ 80%, tiếp theo là para coliform, proteus, tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn sinh kiềm, Pseudomonas aeruginosa, và đôi khi là vi khuẩn kỵ khí, nấm, vi rút và động vật nguyên sinh . Trên lâm sàng, nhiễm trùng Pseudomonas aeruginosa và Staphylococcus phổ biến hơn ở những bệnh nhân có tiền sử kiểm tra dụng cụ đường tiết niệu hoặc đặt ống thông tiểu trong thời gian dài. Bệnh tiểu đường và chức năng miễn dịch thấp thường đi kèm với nhiễm nấm đường tiết niệu. Những năm gần đây, bệnh viêm bể thận do Proteus, Pseudomonas aeruginosa, cầu khuẩn Gram dương ngày càng gia tăng.
Độc lực của vi khuẩn cũng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của viêm cầu thận. Lực nhân phân lập từ nước tiểu của bệnh nhân viêm bể thận mạnh hơn, biểu hiện là vi khuẩn chứa một lượng lớn kháng nguyên K (vỏ); Khả năng gắn vào các tế bào tiết niệu (bám dính) mạnh hơn; Trên bề mặt vi khuẩn có lông mao, bám vào các thụ thể tương ứng của tế bào biểu mô đường tiết niệu, không thể cùng nước tiểu chảy ra ngoài cơ thể; Nhiễm trùng được giải quyết trong đường tiết niệu. Ngoài ra, một số người coi sự kết dính của vi khuẩn là một yếu tố quan trọng trong độc tính của nó.
Trong nhiễm trùng viêm bể thận, trực khuẩn là vi khuẩn gây bệnh chính, và cái chết của vi khuẩn và nội độc tố được giải phóng trong quá trình sinh sản cũng là những yếu tố gây bệnh quan trọng. Endotoxin có nhiều hoạt động sinh học. Nó có thể làm hỏng ty thể của nhà máy điện, giảm sản xuất ATP, khiến tế bào không đủ năng lượng cung cấp, gây phù tế bào, đẩy nhanh quá trình tự phân hủy và chết tế bào. Ngoài ra, nội độc tố cũng có thể làm hỏng màng lysosome, ảnh hưởng đến chức năng của microsome và phá hủy quá trình sử dụng oxy của tế bào. Vì vậy, nội độc tố là một yếu tố mà các nhà lâm sàng không thể bỏ qua và bỏ qua trong cơ chế bệnh sinh của viêm bể thận. Trong những năm gần đây, nghiên cứu về khía cạnh này đang gia tăng. Một số học giả báo cáo rằng xét nghiệm Limulus có tính đặc hiệu đáng kể trong việc đánh giá sự lây nhiễm của vi khuẩn gram âm trong nước tiểu. Ví dụ, tỷ lệ dương tính của xét nghiệm Limulus là 87% ở mẫu nước tiểu có số lượng vi khuẩn cấy nước tiểu lớn hơn 105/ml và 99% ở mẫu nước tiểu có số lượng vi khuẩn gram âm lớn hơn 105/ml. Trước đây, bệnh viêm bể thận luôn chủ trương dùng kháng sinh kết hợp với các phương pháp điều trị khác mà bỏ qua việc điều trị chống nội độc tố. Ngoài ra, viêm bể thận có tác dụng điều trị lâu dài và bệnh nhân thường không thể tuân thủ nó. Dễ khiến bệnh không được điều trị triệt để mà chuyển sang mãn tính, gây tổn hại chức năng thận.